Scholar Hub/Chủ đề/#thực phẩm hữu cơ/
Thực phẩm hữu cơ là những loại thực phẩm được sản xuất và chế biến theo các quy trình tự nhiên, không sử dụng hóa chất tổng hợp hoặc thuốc trừ sâu, không sử dụn...
Thực phẩm hữu cơ là những loại thực phẩm được sản xuất và chế biến theo các quy trình tự nhiên, không sử dụng hóa chất tổng hợp hoặc thuốc trừ sâu, không sử dụng phân bón hóa học và không biến đổi gen. Thực phẩm hữu cơ thường được trồng trọt theo phương pháp hữu cơ và xem như là một hệ thống nông nghiệp bền vững, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Sản phẩm hữu cơ thường có chất lượng cao hơn, ít chất độc hại hơn so với sản phẩm thông thường.
Các tiêu chuẩn và quy định về thực phẩm hữu cơ có thể khác nhau tùy theo quốc gia hoặc tổ chức chứng nhận. Tuy nhiên, những nguyên tắc cơ bản để một sản phẩm được coi là thực phẩm hữu cơ bao gồm:
1. Không sử dụng hóa chất tổng hợp: Trong quá trình trồng trọt, không dùng các loại phân bón và thuốc trừ sâu hóa học.
2. Không sử dụng phân bón hóa học: Thay vì sử dụng phân bón hóa học, các phân bón hữu cơ được ưa thích như phân bò, phân cừu, phân chuồn chuồn,…
3. Không sử dụng biến đổi gen: Sản phẩm hữu cơ không được tạo ra từ cây trồng có bất kỳ biến đổi gen nào. Điều này xác nhận rằng cây trồng hữu cơ được nuôi dưỡng và trồng trọt một cách tự nhiên.
4. Bảo vệ môi trường: Hệ thống trồng trọt hữu cơ thường tạo ra tác động ít hơn đến môi trường, bao gồm việc giảm sự tiếp xúc với các chất hóa học có hại, bảo vệ đa dạng sinh học và sử dụng tài nguyên nước và đất bền vững.
5. Chứng nhận hữu cơ: Các sản phẩm hữu cơ thường cần phải được chứng nhận bởi một tổ chức hoặc cơ quan có uy tín. Các tiêu chuẩn chứng nhận hữu cơ đảm bảo rằng sản phẩm đạt các quy định và tiêu chuẩn tương ứng.
Thực phẩm hữu cơ có thể là các sản phẩm nông dược, trái cây và rau củ, hạt, sữa và sản phẩm từ sữa, thịt và sản phẩm từ động vật, thực phẩm đông lạnh, sản phẩm mỹ phẩm và chăm sóc cá nhân, và nhiều loại thực phẩm khác.
Dưới đây là các thông tin chi tiết hơn về thực phẩm hữu cơ:
1. Cách trồng trọt: Trong nông nghiệp hữu cơ, việc trồng trọt được thực hiện một cách tự nhiên và sinh thái. Hệ thống chăm sóc cây trồng bao gồm việc sử dụng phân bón hữu cơ, bao gồm phân động vật, phân hữu cơ tái tạo từ các chất thải sinh học. Ngoài ra, các loại phân bón xanh như compost, phân chuồn chuồn, phân trùn quế cũng được sử dụng để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
2. Kiểm soát sâu bệnh sinh học: Thay vì sử dụng thuốc trừ sâu hóa học để kiểm soát sâu bệnh, nông dân hữu cơ thường áp dụng các phương pháp sinh học như sử dụng côn trùng cắt giảm (như dùng loài ong hoặc côn trùng khác để giữ cân bằng sinh học trong quần thể sâu bệnh), sử dụng cây kỹ thuật (như trồng các loại cây cung cấp chất từ thiên nhiên để kiểm soát sâu bệnh), và sử dụng thuốc phòng ngừa hữu cơ như dầu neem, axit boron hoặc canxi.
3. Quy định chứng nhận: Các sản phẩm hữu cơ thường cần được chứng nhận bởi các tổ chức độc lập như USDA (Hoạch định nông nghiệp hữu cơ của Hoa Kỳ), EU (Liên minh Châu Âu), hoặc IFOAM (Liên minh Quốc tế các Cơ quan Nông nghiệp Hữu cơ). Quá trình chứng nhận ghi rõ các tiêu chuẩn cụ thể về quy trình trồng trọt, quản lý cây trồng, thiết kế hệ thống và kiểm soát sâu bệnh.
4. Lợi ích: Thực phẩm hữu cơ được cho là có nhiều lợi ích về sức khỏe, bảo vệ môi trường và đồng cảm với hệ sinh thái tự nhiên. Chúng thường có hàm lượng chất dinh dưỡng cao hơn, ít chất cấm và chất độc hại hơn so với sản phẩm thông thường. Ngoài ra, việc trồng trọt hữu cơ có thể giảm sự thải ra chất độc hại vào môi trường, bảo vệ sự đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm nước và đất đai, và duy trì sự bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc trồng trọt hữu cơ có thể đòi hỏi chi phí và công sức cao hơn so với nông nghiệp truyền thống, và sản lượng có thể thấp hơn. Một số nguồn cung cấp hữu cơ cũng có thể không được chứng nhận, vì vậy, người tiêu dùng nên xác minh nguồn gốc và quy trình sản xuất của sản phẩm hữu cơ mà họ mua.
NHỮNG YẾU TỐ THÚC ĐẨY VÀ KÌM HÃM Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM HỮU CƠ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHThực phẩm hữu cơ trở nên phổ biến tại Việt Nam do mức độ nhận thức về thực phẩm không an toàn của người dân ngày càng nâng cao. Tuy nhiên thực phẩm hữu cơ không là lựa chọn tối ưu trong ý định tiêu dùng. Điều này cho thấy một khoảng cách tồn tại giữa ý định và nhận thức người tiêu dùng khi chọn mua thực phẩm hữu cơ, đó là yếu tố thúc đẩy hoặc kìm hãm. Vì vậy nghiên cứu nhằm mục đích xác định, đánh giá những yếu tố thúc đẩy và kìm hãm ý định mua thực phẩm hữu cơ. Với những thang đo được kế thừa từ các nghiên cứu trước, nghiên cứu định tính thông qua phỏng vấn sâu sơ bộ các chuyên gia có kiến thức nhất định về thực phẩm hữu cơ được thực hiện nhằm kiểm định mức độ phù hợp của thang đo đối với bối cảnh một đất nước đang phát triển như Việt Nam. Nghiên cứu định lượng sơ bộ với 77 quan sát hợp lệ nhằm đánh giá độ tin cậy thang đo. Với mẫu nghiên cứu chính thức gồm 299 người tiêu dùng, mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng để kiểm định giả thuyết nghiên cứu. Kết quả cho thấy ý thức sức khỏe, phúc lợi hệ sinh thái, an toàn chất lượng, rào cản giá trị, rào cản rủi ro, rào cản sử dụng là những yếu tố giải thích ý định mua thực phẩm hữu cơ. Một số hàm ý quản trị được đề xuất nhằm thu hút người tiêu dùng chọn mua thực phẩm hữu cơ.
#purchase intention #organic food #facilitator #inhibitor
Ý định tiêu dùng thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng trẻ: Vai trò của niềm tinTiêu dùng xanh ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm xem xét những yếu tố tác động đến ý định mua của người tiêu dùng trẻ tuổi đối với thực phẩm hữu cơ - một loại sản phẩm xanh. Kết quả cho thấy thái độ, kiểm soát hành vi cảm nhận, nhận thức tính hữu hiệu về hành động vì môi trường tác động tích cực đến ý định mua đối với những người tiêu dùng có niềm tin cao. Với những người có niềm tin thấp thì ý định mua của họ không bị ảnh hưởng bởi thái độ, kiểm soát hành vi cảm nhận, nhận thức tính hữu hiệu về hành động vì môi trường. Chuẩn mực chủ quan tác động tích cực đến ý định hành vi của người tiêu dùng cho dù người đó nắm giữ niềm tin cao hay thấp, nhưng mức độ tác động của chuẩn mực chủ quan lên ý định mua của nhóm người tiêu dùng có niềm tin cao hơn là lớn hơn so với nhóm người có mức độ niềm tin thấp hơn.
#hành vi tiêu dùng #niềm tin #PCE #thực phẩm hữu cơ #TPB
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH MUA THỰC PHẨM HỮU CƠ CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH DỰA TRÊN MÔ HÌNH S-O-RNghiên cứu này dựa trên mô hình cải tiến (S-O-R) nhằm nhận dạng và đo lường ảnh hưởng của các yếu tố là hàm lượng dinh dưỡng, hàm lượng tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái, hấp dẫn giác quan, giá, thái độ vị lợi và thái độ hưởng thụ đối với ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng Tp.Hồ Chí Minh. Dựa trên kiểm nghiệm mô hình cấu trúc với bộ dữ liệu thu thập từ 289 người tiêu dùng; kết quả nghiên cứu cho thấy thái độ hưởng thụ và thái độ vị lợi có tác động tích cực và trực tiếp đến ý định mua của người tiêu dùng, còn các yếu tố hàm lượng dinh dưỡng, hàm lượng tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái, hấp dẫn giác quan có tác động tích cực và giá có tác động tiêu cực lên thái độ vị lợi và thái độ hưởng thụ. Nghiên cứu này giúp cho những người làm tiếp thị và thực hiện chính sách hiểu rõ phải làm thế nào để người tiêu dùng hình thành ý định mua thực phẩm hữu cơ.
#Intention to buy #Organic foods #S-O-R model
Ý ĐỊNH MUA VÀ SẴN SÀNG TRẢ GIÁ CAO CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ĐỐI VỚI THỰC PHẨM HỮU CƠ: ỨNG DỤNG MÔ HÌNH HỒI QUY LOGISTICSTình hình tiêu thụ thực phẩm hữu cơ đã tăng trong thời gian gần đây và đáp ứng được mối quan tâm của người tiêu dùng về các vấn đề liên quan đến sức khỏe, hạnh phúc và môi trường. Tuy nhiên, việc gia tăng tiêu thụ vẫn còn nhiều hạn chế so với tiềm năng của thị trường. Nghiên cứu này nhằm mục đích điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua và sẵn sàng trả giá cao của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ. Với một mẫu nghiên cứu gồm 267 người tiêu dùng được khảo sát trực tiếp tại các hộ gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, các giả thuyết đã được kiểm định bằng mô hình hồi quy logistics. Kết quả xác nhận rằng, đặc điểm gia đình, thái độ, nhận thức an toàn và rào cản rủi ro là những yếu tố chính ảnh hưởng đáng kể đến ý định mua và sẵn sàng trả giá cao của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ. Kết quả của nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết sâu sắc cho nhà quản lý và tiếp thị về các biến số chính thúc đẩy tiêu thụ thực phẩm hữu cơ trong nước.
#Organic food #purchase intention #willingness to pay a premium #logistic regression
Sử dụng phụ phẩm hữu cơ nông nghiệp - công nghiệp để phục hồi đất bị thoái hóa: sự khác biệt về hóa học và độc tính sinh thái (genotoxic) giữa bùn tươi và bùn ổn định cùng việc thiết lập tỷ lệ áp dụng Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 23 - Trang 3018-3025 - 2015
Đất bị thoái hóa do hoạt động khai thác than có thể được phục hồi bằng cách bổ sung bùn hữu cơ từ nông nghiệp - công nghiệp. Tuy nhiên, các tác động môi trường liên quan đến phương pháp quản lý này cần được giải quyết đúng cách. Trong bối cảnh này, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá độc tính sinh thái (genotoxic) của bùn tươi và bùn đã ổn định trước khi sử dụng trong thử nghiệm phục hồi đất trong phòng thí nghiệm. Phân tích hóa học của các hỗn hợp phức tạp (đất thoái hóa, bùn tươi và bùn ổn định) đã được tiến hành, cùng với một loạt các thử nghiệm độc tính sinh thái (genotoxic) trên enzyme vi sinh vật (thủy phân fluorescein), giun đất và thực vật bậc cao (bao gồm thử nghiệm genotoxic trên Vicia faba), theo các phương pháp đã công bố. Kết quả của các thử nghiệm này cho thấy bùn tươi độc hơn so với bùn đã ổn định trong 6 tháng đối với giun đất và thực vật bậc cao (xà lách, ngô và cải dại), trong khi các thử nghiệm phyto(geno)toxicity với V. faba cho thấy cùng mức độ độc tính gen cho hai loại bùn. Trong mô phỏng phục hồi đất sử dụng các hỗn hợp khác nhau của đất thoái hóa và bùn ổn định, tỷ lệ 50:50% (theo khối lượng khô) cho thấy tác động phyto(geno)toxicity thấp nhất và hỗn hợp này có thể được sử dụng cho việc tái thực vật hóa khu vực bị ô nhiễm.
#phục hồi đất #bùn hữu cơ #độc tính sinh thái #genotoxicity #tái thực vật hóa #khai thác than
Nấm Culturable của Quả Táo ‘Golden Delicious’ Đã lưu trữ: Nghiên cứu So sánh Một Mùa Giữa Các Hệ Thống Sản Xuất Hữu Cơ và Tích Hợp Tại Thụy Sĩ Dịch bởi AI Microbial Ecology - Tập 56 - Trang 720-732 - 2008
Các tác động của hệ thống sản xuất hữu cơ và tích hợp đối với quần xã nấm có thể nuôi cấy được của quả táo lưu trữ từ năm cặp trang trại ‘Golden Delicious’ hữu cơ chứng nhận và tích hợp được nghiên cứu tại năm địa điểm sản xuất đại diện ở Thụy Sĩ. Nấm được phân lập được xác định theo hình thái học. Tần suất thực dân (tỷ lệ quả táo bị xâm chiếm), số lượng (số lượng thuộc địa) và sự đa dạng (sự phong phú về số loại) được đánh giá cho mỗi vườn cây. Chất lượng tiêu chuẩn của các quả lưu trữ tương đương giữa táo hữu cơ và táo tích hợp, tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm quốc gia. Nấm men (sáu loại) và nấm giống như men Aureobasidium pullulans là sinh vật biểu sinh chiếm ưu thế, trong khi nấm sợi (21 loại) là sinh vật nội sinh chiếm ưu thế. Các loài nấm phổ biến nhất xuất hiện tại tất cả các địa điểm và thuộc về nhóm nấm men “trắng” và “hồng”, nấm giống như men A. pullulans, nấm sợi Cladosporium spp., Alternaria spp. và nấm sợi vô tính. Phân tích sự tương ứng chuẩn tắc của cộng đồng nấm tổng thể cho thấy sự phân biệt rõ ràng giữa các hệ thống sản xuất và địa điểm. So với táo tích hợp, táo hữu cơ có tần suất nấm sợi cao hơn đáng kể, độ phong phú tổng thể của nấm và sự đa dạng về loại. Tác động của hệ thống sản xuất đối với quần xã nấm có thể do các chiến lược bảo vệ thực vật khác nhau. Tỷ lệ của các loài có khả năng sản xuất mycotoxin như các loài Penicillium và Alternaria không khác nhau giữa các hệ thống sản xuất. Chúng tôi đề xuất rằng sự đa dạng nấm cao hơn có thể liên quan đến sản xuất hữu cơ và có thể làm tăng mức độ các loài có lợi và có tác động đối kháng, được biết đến với khả năng ức chế bệnh lý trên táo, đây có thể là một lợi thế cho táo hữu cơ, ví dụ, liên quan đến kiểm soát bệnh tự nhiên.
#nấm #thực phẩm #hệ thống sản xuất hữu cơ #hệ thống sản xuất tích hợp #quả táo #thụy sĩ
Hệ thống khứu giác điện tử dựa trên các dãy cảm biến bán dẫn oxit kim loại Dịch bởi AI MRS Bulletin - Tập 29 - Trang 703-708 - 2011
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày về khứu giác điện tử Pico, một hệ thống khứu giác nhân tạo dựa trên các cảm biến bán dẫn màng mỏng, và hai ứng dụng: kiểm soát chất lượng thực phẩm (phân tích cà phê) và giám sát môi trường (mùi ở khu chôn lấp). Đối với cả hai ứng dụng, dữ liệu khứu giác điện tử có tương quan với nhóm giám khảo được đào tạo. Đối với cà phê, một chỉ số toàn cầu (gọi là chỉ số hedonic) mô tả sức hấp dẫn cảm quan có thể được dự đoán bằng khứu giác điện tử, và đối với khu chôn lấp, cường độ mùi có thể được định lượng. Trong bài báo này, chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của các cảm biến ổn định và nhạy, chẳng hạn như màng oxit kim loại được sản xuất bằng phương pháp phun và phân tích dữ liệu đa biến để khai thác kiến thức (ví dụ: tăng khả năng chọn lọc) từ dữ liệu.
#khứu giác điện tử #cảm biến bán dẫn oxit kim loại #kiểm soát chất lượng thực phẩm #giám sát môi trường #phân tích dữ liệu đa biến
Vai trò của tình yêu thương hiệu trong việc giải thích lòng trung thành thương hiệu thực phẩm hữu cơ của khách hàng tại khu vực Nam Trung BộNghiên cứu này sử dụng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp và khảo sát trực tuyến bằng mẫu phiếu thuận tiện với 360 khách hàng sinh sống tại khu vực Nam Trung Bộ. Bài viết sử dụng mô hình cấu trúc dựa trên kỹ thuật phân tích bình phương tối thiểu bán phần để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu với các kỹ thuật kiểm định độ tin cậy cronbach' alpha, độ giá trị hội tụ và phân biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình yêu thương hiệu có tác động mạnh đến lòng trung thành và truyền miệng thương hiệu thực phẩm hữu cơ của khách hàng tại khu vực Nam Trung Bộ. Từ đó, nghiên cứu gợi mở một số hàm ý chính sách quan trọng và cần thiết cho nhà quản trị marketing, nhà sản xuất, nhà kinh doanh và nhà quản lý có dự báo hành vi tiêu dùng thực phẩm hữu cơ đối với khách hàng tại khu vực Nam Trung Bộ.
#Nam Trung Bộ #Tình yêu thương hiệu #Thực phẩm hữu cơ #Trung thành thương hiệu
Áp dụng thang đo sự gắn bó với thịt (MEAS) tại Đức: tương tác với sự sợ thực phẩm mới, sở thích về thực phẩm hữu cơ, niềm tin xã hội và niềm tin vào đổi mới công nghệ thực phẩm Dịch bởi AI Agricultural and Food Economics - Tập 11 - Trang 1-21 - 2023
Chế độ ăn dựa trên thịt vẫn là tiêu chuẩn, và người ăn chay, thuần chay chỉ chiếm một phần nhỏ trong dân số. Một sự chuyển đổi, tương ứng, thay đổi hành vi hướng đến chế độ ăn ít thịt chỉ có thể xảy ra bằng cách áp dụng thái độ tích cực đối với các thay đổi chế độ ăn dựa trên lý do và động lực. Mục đích chính của nghiên cứu này là áp dụng thang đo sự gắn bó với thịt (MEAS) tại Đức nhằm phân tích xem cấu trúc này có phải là một rào cản đối với chế độ ăn ít thịt tại quốc gia này hay không. Để thực hiện điều này, ảnh hưởng của sự gắn bó với thịt đối với niềm tin vào các lựa chọn protein khác nhau (thực vật, côn trùng, thịt nuôi cấy) và các công nghệ chế biến thực phẩm liên quan được phân tích. Các phát hiện cho thấy mức độ gắn bó với thịt cao đi kèm với niềm tin thấp vào protein thực vật. Điều này cũng đúng cho thịt nuôi cấy và protein từ côn trùng. Do đó, có vẻ như, ít nhất là trong thời điểm hiện tại, thịt nuôi cấy hoặc protein từ côn trùng không phải là sự thay thế hợp lý cho người tiêu dùng có mức độ gắn bó với thịt cao.Dv Hơn nữa, trong phân tích, chúng tôi đã xem xét liệu sự gắn bó với thịt như được đo lường bằng MEAS có tương quan với các thang đo/sở thích khác như sự sợ thực phẩm mới, niềm tin xã hội và thái độ đối với sở thích liên quan đến sản phẩm hữu cơ hay không. Tài liệu cho thấy rằng tất cả các cấu trúc đã đề cập ảnh hưởng đến sự chấp nhận, sở thích hoặc niềm tin vào đổi mới sản phẩm thực phẩm bền vững hơn, tương ứng là các kỹ thuật chế biến thực phẩm bền vững hơn. Kết quả của phân tích tương quan cho thấy rằng, đặc biệt, sự sợ thực phẩm mới và sự gắn bó với thịt không tương quan với nhau. Điều này có nghĩa là, MEAS đại diện cho một yếu tố dự đoán cho niềm tin vào các công nghệ thực phẩm (chế biến) như protein thực vật hoặc thịt nuôi cấy, mà độc lập với cấu trúc sự sợ thực phẩm mới.